Tinh thần xuyên suốt trong triển khai các dự án đường sắt
Phát biểu chỉ đạo tại phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo trong thời gian tới là hết sức nặng nề, phức tạp và gấp rút. Do đó, quá trình triển khai phải đảm bảo “chất lượng, kỹ thuật, tiến độ, hiệu quả và tính khả thi”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại cuộc họp. Ảnh: VGP
Theo Thủ tướng, tinh thần xuyên suốt là “3 có, 2 không”: có lợi ích của Nhà nước, có lợi ích của người dân, có lợi ích của doanh nghiệp; và không tham nhũng, tiêu cực, không để thất thoát, lãng phí tài sản, công sức, tiền bạc của nhân dân.
Điều này không chỉ thể hiện quyết tâm chính trị trong việc kiểm soát tiến độ và chất lượng công trình, mà còn là cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về tính minh bạch, hiệu quả trong sử dụng nguồn lực quốc gia.
Đẩy nhanh tiến độ, chuẩn bị cho giai đoạn bứt phá
Theo chỉ đạo của Thủ tướng, dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cần được đẩy nhanh tiến độ, khởi công thành phần 1 vào ngày 19/12/2025. Thủ tướng chỉ đạo Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh khẩn trương làm việc, thống nhất phương án tuyến, vị trí các ga còn lại (ga Nam Hải Phòng, ga Yên Thường, Kim Sơn) trong tháng 10/2025, đây là các ga có quy mô lớn, phức tạp về giao cắt với các tuyến đường sắt, đường bộ, phức tạp về ảnh hưởng của dòng chảy sông.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam phấn đấu khởi công trong năm 2026. Để đạt mục tiêu này, Thủ tướng giao Bộ Xây dựng và Bộ Khoa học & Công nghệ khẩn trương hoàn thiện, ban hành 37 Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về đường sắt tốc độ cao trong tháng 10/2025, làm nền tảng kỹ thuật cho các bước tiếp theo.
Bên cạnh đó, các địa phương có tuyến đi qua được yêu cầu hoàn thiện giải phóng mặt bằng, tái định cư, bảo đảm “nơi ở mới của người dân phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ”. Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng và các địa phương được chỉ đạo phối hợp chặt chẽ trong phân bổ, ứng vốn, giải ngân để không chậm tiến độ vì thiếu nguồn lực.
Thủ tướng cũng biểu dương tỉnh Ninh Bình trong công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư – địa phương đã chủ động quy hoạch, khai thác quỹ đất theo mô hình TOD (phát triển đô thị gắn với giao thông công cộng) với tổng diện tích hơn 5.000 ha quanh các ga, mở hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ phụ trợ cho ngành đường sắt.
Huy động nguồn lực xã hội và công nghiệp hỗ trợ trong nước
Một điểm đáng chú ý tại phiên họp là sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp tư nhân lớn vào các dự án đường sắt trọng điểm. Trong đó, VinSpeed, THACO, liên danh Mekolor - Great USA và một số doanh nghiệp trong nước khác đã chính thức đăng ký đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam với tổng mức vốn dự kiến 67 tỷ USD.
VinSpeed – doanh nghiệp thành viên của Tập đoàn Vingroup – đang tăng tốc củng cố bộ máy, chuẩn bị cho giai đoạn triển khai, bao gồm tuyển dụng gần 1.000 nhân sự kỹ thuật cao, đầu tư mạnh vào nghiên cứu, thiết kế, công nghệ đường sắt. Trong khi đó, THACO đã ký kết thỏa thuận với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) với quy mô tài trợ lên tới 100.000 tỷ đồng, tạo nền tảng tài chính vững chắc để đầu tư các dự án hạ tầng quy mô quốc gia.
Sự tham gia chủ động của khối doanh nghiệp trong nước không chỉ thể hiện năng lực tài chính và quản trị mà còn khẳng định vai trò dẫn dắt phát triển công nghiệp hỗ trợ cho lĩnh vực đường sắt – từ sản xuất vật liệu, kết cấu thép, toa xe, thiết bị điện, cho đến công nghệ điều khiển, vận hành, bảo trì.
Đây chính là cơ hội để doanh nghiệp cơ khí, điện – tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ thông tin trong nước tham gia sâu vào chuỗi giá trị, từ thiết kế, chế tạo đến chuyển giao công nghệ, góp phần hình thành hệ sinh thái công nghiệp đường sắt Việt Nam.
Chuyển giao và tự chủ công nghệ – hướng đi chiến lược
Một trong những điểm nhấn được Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh là cách tiếp cận mới trong phát triển ngành đường sắt: “chuyển giao công nghệ, từng bước phát triển, tự chủ công nghệ đường sắt và tàu điện ngầm”.
Theo đó, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam được giao nhiệm vụ chủ trì triển khai chuyển giao công nghệ – từ nghiên cứu, sản xuất, bảo hành, bảo trì, đến sửa chữa. Đồng thời, xây dựng đề án và quy trình chuyển giao công nghệ cụ thể, chuẩn bị nguồn nhân lực, vật lực, hạ tầng kỹ thuật đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Chủ trương này sẽ mở đường cho sự hình thành các trung tâm nghiên cứu, chế tạo, kiểm định và thử nghiệm công nghệ đường sắt trong nước, tương tự mô hình đã thành công ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Qua đó, Việt Nam không chỉ nhập khẩu công nghệ mà còn học hỏi, nội địa hóa, tiến tới làm chủ toàn bộ chuỗi sản xuất – vận hành – bảo trì đường sắt tốc độ cao.
Đây cũng là nền tảng để thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ đường sắt, tạo việc làm cho hàng chục nghìn kỹ sư, công nhân cơ khí, tự động hóa và công nghệ thông tin – những lĩnh vực đang cần được phát triển mạnh trong kỷ nguyên công nghiệp 4.0.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, toàn hệ thống phải chủ động, tích cực, dám nghĩ, dám làm (Ảnh: Nhật Bắc)
Tạo đột phá từ thể chế, tiêu chuẩn và nhân lực
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, sau phiên họp thứ 3, Chính phủ đã ban hành gần 20 văn bản chỉ đạo liên quan tới các dự án trọng điểm đường sắt, trong đó có việc hoàn thiện Nghị quyết số 188/2025/QH15 về cơ chế đặc thù phát triển hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.HCM; phê duyệt Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam; và hoàn thiện bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho tuyến Bắc – Nam.
Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Chính phủ Nghị định phát triển khoa học – công nghệ đường sắt, đồng thời rà soát, thẩm định 37 tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia. Bộ Công Thương xây dựng Đề án phát triển công nghiệp đường sắt, còn Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết cơ chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phương án ứng vốn giải phóng mặt bằng.
Những bước đi này cho thấy Việt Nam đang chuyển từ tư duy đầu tư hạ tầng thuần túy sang xây dựng nền tảng thể chế, công nghiệp và nhân lực đồng bộ, nhằm phát triển đường sắt theo hướng bền vững, tự chủ và có giá trị lan tỏa cao.
Liên kết vùng và động lực phát triển kinh tế quốc gia
Các dự án đường sắt trọng điểm không chỉ mang ý nghĩa giao thông mà còn là động lực phát triển vùng và công nghiệp hỗ trợ. Tuyến Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng được xem là “mạch kết nối vàng” giữa vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng thủ đô và cảng biển lớn nhất miền Bắc. Tuyến Bắc – Nam sẽ mở ra trục phát triển kinh tế xuyên suốt, giúp giảm tải cho đường bộ, cắt giảm chi phí logistics, đồng thời tạo điều kiện cho các khu công nghiệp, khu logistics, đô thị vệ tinh phát triển mạnh.
Đặc biệt, các mô hình TOD (phát triển đô thị gắn với giao thông) đang được khuyến khích triển khai quanh các ga đường sắt, mở ra cơ hội đầu tư lớn trong lĩnh vực bất động sản, dịch vụ, thương mại và công nghiệp phụ trợ.
Kết luận phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, toàn hệ thống phải chủ động, tích cực, dám nghĩ, dám làm, không trông chờ, ỷ lại. Các bộ, ngành và địa phương cần “6 rõ” – rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền – để đạt “3 dễ”: dễ kiểm tra, dễ đôn đốc, dễ đánh giá.
Đặc biệt, Thủ tướng yêu cầu Bộ Xây dựng và Bộ Khoa học & Công nghệ hoàn thành toàn bộ thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật trong năm 2025, để khởi công đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam vào năm 2026, mở ra giai đoạn mới cho ngành giao thông Việt Nam.
Với tinh thần quyết liệt, cách làm chủ động, sáng tạo và định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ – chuyển giao công nghệ, ngành đường sắt Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để bứt phá, hiện đại hóa và hội nhập, đưa đất nước tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bền vững theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.